Những bài Thơ hay về Lịch sử Việt Nam hào hùng và dũng cảm

Tổng hợp những bài Thơ hay về Lịch sử Việt Nam là một hành trình về quá khứ, là cơ hội để chúng ta khám phá và gìn giữ những huyền thoại, những giai thoại và những kỷ niệm vĩ đại của dân tộc. Hãy cùng nhau lắng nghe và cảm nhận những trang thơ đầy cảm xúc, những câu chuyện tưởng chừng đã quá xa xôi, nhưng vẫn rực sáng trong tâm trí chúng ta.

Từ những trang sách lịch sử đã được ghi chép, đến những câu chuyện truyền miệng truyền từ đời này sang đời khác, lịch sử Việt Nam vẫn mãi là một tấm gương sáng, khắc sâu trong tâm hồn mỗi người con Việt. Và ngay từ những dòng thơ tuyệt vời, chúng ta có thể trở về quá khứ, đắm mình trong những tràng ca ngợi về sự dũng cảm, lòng yêu nước và tình yêu quê hương.

Những bài thơ về Lịch Sử Việt Nam hay 

Những bài thơ về Lịch Sử Việt Nam hay

Lịch sử nước ta – Tác giả: Hồ Chí Minh

Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà.

Hồng Bàng là tổ nước ta.
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang.
Thiếu niên ta rất vẻ vang,
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời.
Tuổi tuy chưa đến chín mười,
Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương.
An Dương Vương thế Hùng Vương,
Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân.
Triệu Đà là vị hiền quân,
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.
Nước Tàu cậy thế đông người,
Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam.
Quân Tàu nhiều kẻ tham lam,
Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?
Hai Bà Trưng có đại tài,
Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian,
Ra tay khôi phục giang san,
Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta.
Tỉnh Thanh Hoá có một bà,
Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi,
Tài năng dũng cảm hơn người,
Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.
Phụ nữ ta chẳng tầm thường,
Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời,
Kể gần sáu trăm năm giời,
Ta không đoàn kết bị người tính thôn.
Anh hùng thay ông Lý Bôn,
Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người,
Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài.
Lập nên Triều Lý sáu mươi năm liền.
Vì Lý Phật Tử ngu hèn,
Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta.
Thương dân cực khổ xót xa,
Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu,
Vì dân đoàn kết chưa sâu,
Cho nên thất bại trước sau mấy lần.

Ngô Quyền quê ở Đường Lâm,
Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm.
Đến hồi Thập nhị sứ quân,
Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn.
Động Hoa Lư có Tiên Hoàng,
Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh.
Ra tài kiến thiết kinh dinh,
Đến vua Phế Đế chỉ kinh hai đời.
Lê Đại Hành nối lên ngôi.
Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành.
Vì con bạo ngược hoành hành,
Ra đời thì đã tan tành nghiệp vương.
Công Uẩn là kẻ phi thường,
Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta.
Mở mang văn hoá nước nhà,
Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.
Lý Thường Kiệt là hiền thần,
Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành.
Tuổi già phỉ chí công danh,
Mà lòng yêu nước trung thành không phai.
Họ Lý truyền được chín đời,
Hai trăm mười sáu năm giời thì tan.

Nhà Trần thống trị giang san,
Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài,
Quân Nguyên binh giỏi tướng tài:
Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu,
Tung hoành chiếm nửa Âu châu,
Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la,
Lăm le muốn chiếm nước ta,
Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ,
Hải quân theo bể kéo đi,
Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nen.
Dân ta nào có chịu hèn,
Đồng tâm, hợp lực mấy phen đuổi Tàu.
Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu,
Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang,
Mênh mông một giải Bạch Đằng,
Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh,
Hai lần đại phá Nguyên binh,
Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời.
Quốc Toản là trẻ có tài,
Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền,
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên,
Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung.
Thật là một đấng anh hùng,
Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.
Đời Trần văn giỏi võ nhiều,
Ngoài dân thịnh vượng, trong triều hiền minh.
Mười hai đời được hiển vinh,
Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi.

Cha con nhà Hồ Quý Ly,
Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên.
Tình hình trong nước không yên,
Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu,
Bao nhiêu của cải trân châu,
Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn.

Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,
Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn.
Mấy phen sông Nhị núi Lam,
Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng.
Kìa Tuý Động nọ Chi Lăng,
Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành.
Mười năm sự nghiệp hoàn thành,
Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan.
Vì dân hăng hái kết đoàn,
Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng.
Vua hiền có Lê Thánh Tông,
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành.

Trăm năm truyền đến cung hoàng,
Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi.
Bấy giờ trong nước lôi thôi,
Lê nam, Mạc bắc rạch đôi san hà,
Bảy mươi năm nạn can qua.
Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi.
Từ đời mười sáu trở đi,
Vua Lê, Chúa Trịnh chia vì khá lâu.
Nguyễn Nam, Trịnh Bắc đánh nhau,
Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng.

Dân gian có kẻ anh hùng,
Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn,
Đóng đô ở đất Quy Nhơn,
Đánh tan Trịnh, Nguyễn, cứu dân đảo huyền.
Nhà Lê cũng bị mất quyền,
Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương.
Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu,
Ông đà chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
Cho nên Tàu dẫu làm hung,
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.
Tướng Tây Sơn có một bà,
Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân,
Tay bà thống đốc ba quân,
Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là.
Gia Long lại dấy can qua,
Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.
Tự mình đã chẳng có tài,
Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dầy mả, thiệt là ngu si.
Từ năm Tân Hợi trở đi,
Tây đà gây chuyện thị phi với mình.
Vậy mà vua chúa triều đình,
Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoan.
Nay ta nước mất nhà tan
Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn.
Năm Tự Đức thập nhất niên,
Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây.
Hăm lăm năm sau trận này,
Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan,
Ngàn năm gấm vóc giang san,
Bị vua họ Nguyễn đem hàng cho Tây!
Tội kia càng đắp càng đầy,
Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng.

Nước ta nhiều kẻ tôi trung,
Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương.
Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương,
Cùng thành còn mất làm gương để đời.
Nước ta bị Pháp cướp rồi,
Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng;
Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng
Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương.
Mấy năm ra sức Cần Vương,
Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên,
Giang san độc lập một miền,
Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành.
Anh em khố đỏ, khố xanh,
Mưu khởi nghĩa tại Hà thành năm xưa,
Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa,
Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn.
Kìa Yên Bái, nọ Nghệ An
Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu.
Nam Kỳ im lặng đã lâu,
Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây.
Bắc Sơn đó, Đô Lương đây!
Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn.

Không tên – Tác giả: Chưa rõ

Xét trong lịch sử Việt Nam,
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.
Nhiều phen đánh bắc dẹp đông,
Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên.
Ngày nay đến nỗi nghèo hèn,
Vì ta chỉ biết lo yên một mình.
Để người đè nén, xem khinh,
Để người bóc lột ra tình tôi ngươi!
Bây giờ Pháp mất nước rồi,
Không đủ sức, không đủ người trị ta.
Giặc Nhật Bản thì mới qua,
Cái nền thống trị chưa ra mối mành.
Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh,
Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà.
Ấy là nhịp tốt cho ta,
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.
Người chúng ít, người mình đông
Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên.
Hỡi ai con cháu Rồng Tiên!
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.
Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu,
Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn.
Người giúp sức, kẻ giúp tiền,
Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.
Chúng ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh
Mai sau sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng
Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!

Ngô Quyền Và Trận Bạch Đằng Giang –  Tác giả: Việt Cường

Dòng lịch sử đất hiền kể lại
Tiền Ngô Vương mãi mãi rạng ngời
Đường Lâm mảnh đất cất nôi
Ngô Quyền luyện võ ngàn đời khắc ghi

Người trí dũng cầm kỳ thi hoạ
Dáng oai phong sức đả muôn loài
Mắt ngàn tia chớp chẳng sai
Vào rừng bắt cọp anh tài nổi danh

Thời trẻ tuổi thông minh tuấn tú
Xứ An Nam chính sự thuộc Đường
Nước nhà tự chủ họ Dương
Ngô Quyền con rể nối đường kết giao

Nhà Nam Hán khơi mào thế lực
Diệt nhà Đường cưỡng bức An Nam
Dương – Ngô hai họ phẩm hàm
Đồng lòng tự chủ định an cơ đồ

Kiều Công Tiễn nhân cơ phản chúa
Huỷ thâm tình tham của bất trung
Cướp ngôi gây loạn khốn cùng
Giết Dương Đình Nghệ hành tung hại người

Lòng quân tử không nguôi ý chí
Rể Ngô Quyền chuẩn bị hùng binh
Ái Châu quân tướng đồng tình
Kéo quân ra Bắc trường chinh diệt thù

Kiều Công Tiễn tâm tư hoảng sợ
Bán rẻ mình bợ đỡ ngoại bang
Mượn quân Nam Hán tiện đàng
Hành vi bán nước đa mang đặt điều

Kẻ bán nước hồn siêu phách lạc
Xác lìa hồn tan tác chim muông
Chính nhân quân tử định đường
Quyết tâm chống giặc khẩn trương kế bày

Lưu Hoằng Tháo binh hay lực mạnh
Dùng chiến thuyền toả nhánh kéo qua
Thuỷ quân hai vạn theo đà
Xâm lược nước nhà cửa Bạch Đằng giang

Cọc gỗ lớn kế vàng định sẵn
Vót nhọn đầu để chặn giặc kia
Chôn sâu đáy biển đâm chìa
Ngập trong mặt nước đêm khuya ẩn mình

Giặc hùng hổ điều binh khiển tướng
Xua chiến thuyền cứ tưởng ta thua
Chủ quan thẳng tiến vào hùa
Thuỷ triều rút xuống phân bua muộn rồi

Thuyền bị vỡ, tả tơi nháo nhác
Trúng kế hay phách lạc hãi hùng
Bạch Đằng đỏ máu mông lung
Hoằng Tháo số cùng tử trận tại đây

Nhà Nam Hán đêm ngày nể sợ
Đất An Nam rực rỡ sắc vàng
Nghìn năm Bắc thuộc chặn ngang
Mở đường tự chủ huy hoàng quốc gia

Chuyện kể lại nhà nhà thấu hiểu
Vua Ngô Quyền trung hiếu nghĩa nhân
Điều binh xuất quỷ nhập thần
Anh hùng dân tộc tử quân một thời.

Những bài thơ về Lịch sử Việt Nam ngắn gọn 

Những bài thơ về Lịch sử Việt Nam ngắn gọn

Lịch sử nước Nam – Tác giả: Ngô Hoàng Hải

“Ngày xưa nối tiếp
Lịch sử nước nhà
Ngô, Lý, Trần, Lê…
Giữ lấy lòng chung.

Giang sơn xã tắc
Bái lễ ăn thề
Cùng nhau giữ nước
Chiến đấu đến cùng.

Tại bến Bình Than
Vua Trần Nhân Tông
Họp quan đại thần
Chủ hòa hay chiến?

Quốc Toản tướng trẻ
Bóp nát quả cam.
Cùng nhau chiến đấu
Xuất trận khởi binh.

Hội nghị Diên Hồng
Bô lão triệu về
Cùng nhau hô “Đánh”
Khí thế kiên cường.

Nhà Hồ bị cướp
Lê Lợi, Ức Trai
Chinh chiến mười năm
Lên vua Thái Tổ.

Truyền thuyết rùa vàng
Nổi lên đòi gươm
Trả Đức Long Quân
Nơi hồ Hoàn Kiếm.

Trịnh – Nguyễn phân tranh
Quân Thanh xâm lược
Quang Trung trổ tài
Lập triều Tây Sơn.

Lịch sử nước ta
Vẻ vang tươi đẹp
Hán, Tống, Nguyên, Minh…
Đánh tan tức khắc.”

Tổ Quốc! Bốn Nghìn Năm – Tác giả: Quốc Hòa

Tổ quốc tôi! Dằng dặc bốn nghìn năm
Nhiều thế hệ thay nhau cầm vũ khí
Chiến đấu hy sinh vì Tự do Độc lập
Để Việt Nam, ngời sáng rạng danh…

Đất nước tôi khi gặp họa chiến tranh
Có Ngô Quyền – Quang Trung – Nguyễn Trãi
Cùng dân tộc, đứng lên chiến đấu
Giữ hồn thiêng! Nước Việt Lạc Hồng.

Lũ giặc ngông cuồng, gây họa chiến chinh
Mộng bá quyền xâm lăng từ phương Bắc
Chúng đã gặp Bạch Đằng – Chương Dương – Hàm Tử
Là mồ chôn bao Đế Chế hung tàn.

Tổ quốc tôi! chưa được nghỉ ngơi
Bọn thực dân đua nhau xâm chiếm
Người dân phải lên nguồn xuống biển
Lầm than, cơ cực cả ngàn năm…

Bao nhiêu người, thây phơi đất mỏ
Hàng triệu người, chết đói bốn lăm
Cuộc đời tủi nhục hờn căm
Kiếp thân nô lệ, lầm than bần cùng…

Tổ quốc tôi! Từ khi có Đảng
Có Bác Hồ! Chỉ lối soi đường
Toàn dân theo Đảng lên đàng
Tự do – Độc lập quyết giành từ đây!

Điện Biên Phủ lẫy lừng sông núi
Gây âm vang chấn động địa cầu
Chín năm kháng chiến dài lâu
Thực dân xâm lược, phải mau đầu hàng…

Đế quốc Mỹ, đưa quân xâm chiếm
Lập lao tù, địa ngục trần gian
Ngày đêm, bom đạn rền vang
Gây bao máu đổ, xương tan khắp miền.

Quyết đập tan gông cùm, xiềng xích
Quyết hy sinh vì Độc lập – Tự do
Đứng lên, nào đứng lên thôi
Gái trai, già trẻ nơi nơi diệt thù.

Đây PLâyMe – Biên Hòa – Ấp Bắc
Kia Núi Thành – Bến Lức – Củ Chi
Quân dân rầm rập bước đi
Bến Tre quật khởi, diệt tan bốt đồn.

Kia Đà Nẵng – Khe Sanh – Đường chín
Đây Buôn Mê – Quảng Trị – Nam Lào
Ngày đêm chiến đấu, gian lao
Đánh quân Mỹ – Diệm, diệt loài xâm lăng.

Căm hờn, lại giục căm hờn
Đau thương còn đó, ta còn khắc ghi
Bắt chúng nó, phải quỳ đền tội
Đêm Điện Biên – Hà Nội – Tháng Mười Hai…

Bốn chiến lược, năm đời Tổng thống
Đã chôn vùi, cuồng vọng chiến tranh
Huy hoàng Tổ quốc Việt Nam
Giang sơn thống nhất, niềm vui dâng trào.

Ôi Việt Nam! Ôi Việt Nam!
Ôi! Thời đại Hồ Chí Minh!Quang vinh!
Độc lập – Tự do, Thống nhất – Hòa bình!
Tổ quốc! Bốn nghìn năm bất tử!

Những bài thơ hay về Lịch Sử thả thính 

Những bài thơ hay về Lịch Sử thả thính

Nguồn: Sưu tầm

Em yêu anh như dân yêu Đảng
Mất anh rồi như Đảng mất dân
Mà mất dân thì làm sao mà Đảng thành công được
Nên xin anh hãy yêu em

Anh yêu em như Bác Hồ yêu nước.
Mất em rồi như Pháp mất Đông Dương.
Mất Đông Dương Pháp còn thuộc địa khác.
Mất em rồi thằng khác vẫn yêu anh
Mất Đông Dương Pháp còn thuộc địa khác
Mất em rồi đứa khác vẫn yêu anh

Em biết không em
Anh không phải là nhà thơ
Anh chỉ là chàng trai sinh viên khoa sử
Yêu em bằng tình yêu trong quá khứ
Để tỏ tình nên anh xin lấy sử làm thơ
Em vô tình hay cố ý làm ngơ
Mà vững chãi như công trình kim tự tháp
Dù anh có là bão táp trên sa mạc
Em vẫn trường tồn không sợ thời gian

Nguồn: Sưu tầm

Em yêu anh như dân yêu Đảng
Mất anh rồi như Đảng mất dân
Mà mất dân thì làm sao mà Đảng thành công được
Nên xin anh hãy yêu em

Anh yêu em như Bác Hồ yêu nước.
Mất em rồi như Pháp mất Đông Dương.
Mất Đông Dương Pháp còn thuộc địa khác.
Mất em rồi thằng khác vẫn yêu anh
Mất Đông Dương Pháp còn thuộc địa khác
Mất em rồi đứa khác vẫn yêu anh

Em biết không em
Anh không phải là nhà thơ
Anh chỉ là chàng trai sinh viên khoa sử
Yêu em bằng tình yêu trong quá khứ
Để tỏ tình nên anh xin lấy sử làm thơ
Em vô tình hay cố ý làm ngơ
Mà vững chãi như công trình kim tự tháp
Dù anh có là bão táp trên sa mạc
Em vẫn trường tồn không sợ thời gian

Những bài thơ hay về Lịch Sử thả thính

Lịch sử Việt Nam diễn ca​ – Tác giả: Chưa rõ

Lạc Long Quân, vẩy đầy mình​
Âu cơ là vợ, đẻ uỳnh trăm con.​
Đứa xuống biển, đứa lên non​
Những chuyện như thế éo còn ai tin.​
Triệu Đà tướng giỏi vãi lìn,​
Đánh nhau với cả quân mình Cổ Loa​
Xây thành phải đợi tiếng gà,​
Thần rùa giúp đỡ dần dà cũng xong​
An Dương Vương, cứ khóc ròng​
Mất nước chỉ tại thù trong giặc ngoài !​
Trọng Thủy là đứa bất tài,​
Mỵ Châu phải gọi là loài hiếu dâm.​
Đất nước cực khổ muôn phần​
Vào ách đô hộ đến gần trăm niên

Không tên – Tác giả: Chưa rõ

Paris Bác ở Công Phoăng
Ngày thì quét tuyết đêm chăm học bài
Lênin cương luận rất dài
Bác đọc Bác hiểu một vài ý chung
Học xong Nin-Mác Bác bùng
Nồi xoong quần áo chăn mùng Bác đi
Thế rồi Bác bị tình nghi
Tàu Tưởng bắt Bác mong chi ngày về
Nhưng nhờ nghị lực tràn trề
Đến năm bốn mốt Bác về Việt Nam (1941)
Lúc đầu Bác ở trong hang
Bẻ cây phá đá làm bàn Bác ghi
Vui chơi sung sướng tùy nghi
Sáng ra bờ suối tối thì vào hang
Rau măng cháo bẹ sẵn sàng
Cuộc đời cách mạng thật sang thật giàu…

Không tên – Tác giả: Chưa rõ

Bội Châu thỉnh thoảng viết bài
Thơ ca yêu giống yêu loài ghét Tây
Đông Du phong trào rất hay
Thanh niên du học càng ngày càng đông
Hoàng Hoa Thám giỏi võ công
Mùa xuân khởi nghĩa, mùa đông mất đầu
Thế kỷ mười chín u sầu
Anh hùng giải phóng kiếm đâu bây giờ?

Trên đây, dean2020.edu.vn đã tổng hợp và chia sẻ đến bạn đọc những bài thơ hay về lịch sử Việt Nam, những tác phẩm tuyệt vời đã mang lại cho chúng ta không chỉ những cung bậc cảm xúc mà còn một cái nhìn sâu sắc về quá khứ vĩ đại của dân tộc. Những dòng thơ lắng đọng như hồi chuông vang lên, đưa ta trở về thời gian xa xôi, để cảm nhận và hiểu rõ hơn về những trang sử lịch trình vàng son của đất nước.

Những bài thơ này đã biến lịch sử thành những hình ảnh sống động, từng hạt mưa trên chiến trường, từng lời cất lên trong những cuộc cách mạng. Từ những trận đánh khốc liệt cho tới những thăng trầm của dân tộc, những tác phẩm thơ này đã gợi lên trong trái tim mỗi người con Việt một sự tự hào, một tình yêu sâu đậm với quê hương.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *