Những câu Thơ hay bằng tiếng Trung nổi tiếng và ý nghĩa

Ngôn ngữ Trung Quốc có một truyền thống lâu đời về thơ ca, và trong đó có những câu Thơ hay bằng tiếng Trung nổi tiếng và mang ý nghĩa sâu sắc. Dưới đây là một số câu thơ nổi tiếng bằng tiếng Trung, mang theo mình sự tinh tế và ý nghĩa sâu sắc.

Những bài thơ về bằng tiếng Trung ý nghĩa 

Những bài thơ về bằng tiếng Trung ý nghĩa

悯农: Mẫn Nông – Tác giả: Lí Thân

Bản gốc:
锄禾日当午,汗滴禾下土.
谁知盘中餐,粒粒皆辛苦?

Bản dịch Hán Việt:

Sừ hòa nhật đương ngọ, hãn trích hòa hạ thổ
Thùy tri bàn trung xan, lạp lạp giai tân khổ

Dịch thơ:

Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi, bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!

望庐山瀑布: Vọng Lư sơn bộc bố (Xa ngắm thác núi Lư) – Tác giả:  Lí Bạch

Bản gốc:
日照香炉生紫烟,遥看瀑布挂前川.
飞流直下三千尺,疑是银河落九天.

Bản dịch Hán Việt:

Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.

Bản dịch thơ của Tương Như:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng tắp ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây.

静夜思: Tĩnh Dạ Tư (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) – Tác giả:  Lí Bạch

Bản gốc:

床前明月光,疑是地上霜.
举头望明月,低头思故乡.

Bản dịch Hán Việt:

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

Bản dịch thơ của Tương Như:
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.

黄鹤楼送孟浩然之广陵: Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng – Tác giả: Lí Bạch

Bản gốc:

故人西辞黄鹤楼,
烟花三月下阳州.
孤帆远影碧空尽,
惟见长江天际流.

Bản dịch Hán Việt:

Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Bản dịch thơ của Ngô Tất Tố:

Bạn từ lầu Hạc lên đường,
Giữa mùa hoa khói, châu Dương xuôi dòng.
Bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.

月夜: Nguyệt Dạ – Tác giả: Đỗ Phủ

Bản gốc:

今夜鄜州月,
闺中只独看.
遥怜小儿女,
未解忆长安.
香雾云鬟湿,
清辉玉臂寒.
何时倚虚幌,
双照泪痕干.

Bản dịch Hán Việt:

Kim dạ Phu Châu nguyệt,
Khuê trung chỉ độc khan.
Dao liên tiểu nhi nữ,
Vị giải ức Trường An.
Hương vụ vân hoàn thấp,
Thanh huy ngọc tý hàn.
Hà thì ỷ hư hoảng,
Song chiếu lệ ngân can?

Bản dịch thơ của Tản Đà

Châu Phu này lúc trăng soi,
Buồng the đêm vắng riêng coi một mình.
Đoái thương thơ dại đầu xanh,
Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau.
Sương sa thơm ướt mái đầu,
Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong.
Bao giờ tựa bức màn không,
Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô.

春望:  Xuân Vọng – Tác giả: Đỗ Phủ

Bản gốc:

春望
国破山河在,
城春草木深。
感时花溅泪,
恨别鸟惊心。
烽火连三月,
家书抵万金。
白头搔更短,
浑欲不胜簪。

Bản dịch Hán Việt:

Xuân vọng
Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Phong hỏa liên tam nguyệt,
Gia thư để vạn kim.
Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thắng trâm.

Bản dịch thơ Trần Trọng Kim:

Nước phá tan, núi sông còn đó,
Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu.
Cảm thời hoa rỏ dòng châu
Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng.
Ba tháng khói lửa ròng không ngớt,
Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn.
Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun,
Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.

思归: Tư Quy – Tác giả: Vương Bột

Bản gốc:

思归
长江悲已滞,
万里念将归。
况属高风晚,
山山黄叶飞。

Bản dịch Hán Việt:

Tư quy
Trường Giang bi dĩ trệ,
Vạn lý niệm tương quy.
Huống thuộc cao phong vãn,
Sơn sơn hoàng diệp phi.

Dịch thơ:

Nỗi thương đau đã lắng đọng trên sông Trường Giang,
Ở nơi xa muôn dặm mong nhớ lúc trở về.
Huống hồ đương lúc cuối thu,
Lá vàng tung bay trên núi non trùng điệp.

回乡偶书: Hồi hương ngẫu thư (Ngẫu nhiên viết nhan buổi mới về quê) – Tác giả: Hà Chí Trương

Bản gốc:

少 小 离 家 老 大 回,
乡 音 无 改 鬓 毛 衰.
儿 童 相 见 不 相 识,
笑 问 客 从 何 处 来.

Bản dịch Hán Việt:

Thiếu tiểu li gia lão đại hồi
Hương âm vô cải mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu Vấn Khách Tòng Hà Xử Lai.

Bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ:

Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê không đổi, tóc đà khác bao
Trẻ con nhìn lạ không chào,
Hỏi rằng khách ở chốn nào tới đây.

枫桥夜泊: Phong Kiều Dạ Bạc – Tác giả: Trương Kế

Bản gốc:

月落乌啼霜满天
江枫鱼火对愁眠
姑苏城外寒山寺
夜半钟声到客船

Bản dịch Hán Việt:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

Phong Kiều Dạ Bạc

Những bài thơ về bằng tiếng Trung ý nghĩa

黄鹤楼: Hoàng Hạc Lâu – Tác giả: Thôi Hiệu

Bản gốc:

昔人已乘黄鹤去,
此地空余黄鹤楼.
黄鹤一去不复返,
白云千载空悠悠.
晴川历历汉阳树,
芳草萋萋鹦鹉洲.
日暮乡关何处是,
烟波江上使人愁

Bản dịch Hán Việt:

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Dịch thơ của Tản Đà

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

Bài thơ Trung Quốc về tình yêu

Bài thơ Trung Quốc về tình yêu

断章: Đoạn Chương (Bài thơ nhỏ) – Tác giả: Biện Chi Lâm

Bản gốc:

断章
你站在桥上看风景,
看风景人在楼上看你。
明月装饰了你的窗子,
你装饰了别人的梦。

Dịch thơ:

Em đứng trên cầu ngắm cảnh
Người ngắm cảnh trên cầu lại ngắm em
Ánh trăng điểm tô cửa sổ phòng em
Giấc mộng ai kia lại được em tô điểm.

卜算子: Bốc Toán Tử – Tác giả: Lý Chi Nghi 

卜算子
我住长江头,
君住长江尾。
日日思君不见君,
共饮长江水。
此水几时休?
此恨何时已?
只愿君心似我心,
定不负相思意。

Dịch thơ:

Nhà thiếp ở đầu sông,
Nhà chàng ở phía cuối.
Dòng nước Trường Giang cùng uống chung,
Vắng chàng mong sớm tối.

Nước nọ mấy khi ngừng,
Hận này bao thuở vợi.
Những mong ý thiếp giống lòng chàng,
Mối tình quyết không thay đổi.

白头吟: Khúc ngâm đầu bạc – Tác giả: Trác Văn Quân

Bản gốc:

白头吟
皑如山上雪,
皎若云间月。
间君有两意,
故来相决绝。
今日斗酒会,
明旦沟水头。
躞蹀御沟上,
沟水东西流。

Dịch Hán Việt:

Bạch đầu ngâm
Ngai như sơn thượng tuyết,
Kiểu nhược vân gian nguyệt.
Văn quân hữu lưỡng ý,
Cố lai tương quyết tuyệt.
Kim nhật đấu tửu hội,
Minh đán câu thủy đầu.
Tiệp điệp ngự câu thượng,
Câu thủy đông tây lưu.

Dịch thơ:

Trắng như tuyết trên núi,
Sáng tựa trăng giữa mây.
Nghe lòng chàng hai ý,
Thiếp đành đoạn tình này.
Hôm nay chén sum họp,
Đầu sông tiễn sớm mai.
Lững thững theo dòng nước,
Nước mãi chảy đông tây.

秋风词: Thu Phong Từ – Tác giả: Lý Bạch

Bản gốc:

秋风词
秋风清,
秋月明。
落叶聚还三,
寒鸦栖复惊。
相思相见知何日,
此时此夜难为情。

Dịch Hán Việt:

Thu phong từ
Thu phong thanh,
Thu nguyệt minh.
Lạc diệp tụ hoàn tán,
Hàn nha thê phục kinh.
Tương tư, tương kiến tri hà nhật,
Thử thì thử dạ nan vi tình.

Dịch thơ:

Gió thu lành,
Trăng thu thanh.
Lá rơi tụ lại tán,
Quạ lạnh chợt rùng mình.
Thương nhớ, biết bao giờ mới gặp,
Lúc này đêm ấy ngẩn ngơ tình.

玉楼春-春恨: Ngọc Lâu Xuân – Tác giả: Án Thù

Bản gốc:

玉楼春-春恨
绿杨芳草长亭路,
年少抛人容易去。
楼头残梦五更钟,
花底离愁三月雨。
无情不似多情苦,
一寸还成千万缕。
天涯地角有穷时,
只有相思无尽处。

Dịch Hán Việt:

Ngọc lâu xuân – Xuân hận
Lục dương phương thảo trường đình lộ,
Niên thiếu phao nhân dung dị khứ.
Lâu đầu tàn mộng ngũ canh chung,
Hoa để ly sầu tam nguyệt vũ.
Vô tình bất tự đa tình khổ,
Nhất thốn hoàn thành thiên vạn lũ.
Thiên nhai địa giác hữu cùng thì,
Chỉ hữu tương tư vô tận xứ.

Dịch thơ:

Liễu xanh cỏ ngát hương ngoài lộ
Tuổi trẻ ra đi đâu có khó
Trên lầu trằn trọc suốt năm canh
Ly biệt tháng ba hoa ướt rũ

Vô tình nào khổ tựa đa tình
Một tấc tơ lòng muôn vạn mớ
Chân trời mặt đất còn chia ngăn
Chỉ có nhớ nhau không hạn chỗ

Ngọc Lâu Xuân

相思: Tương Tư – Tác giả: Vương Duy

Bản gốc:

作者 – 王维 – 唐
红豆生南国,
春来发几枝?
愿君多采撷,
此物最相思!

Dịch Hán Việt:

Hồng đậu sinh nam quốc,
Xuân lai phát kỷ chi.
Nguyện quân đa thái hiệt,
Thử vật tối tương tư.

Dịch nghĩa:

Nước nam sinh đậu đỏ,
Xuân về nở cành xinh.
Chàng ơi hái nhiều nhé,
Nhớ nhau tha thiết tình.

红豆词: Hồng Đậu Từ – Tác giả: Tào Tuyết Cần

Bản gốc:

作者: 曹雪芹 – 清
滴不尽相思血泪抛红豆
开不完春柳春花满画楼
睡不稳纱窗风雨黄昏后
忘不了新愁与旧愁
咽不下玉粒金波噎满喉
瞧不尽镜里花容瘦
展不开的眉头挨不明的更漏
呀!
恰便似遮不住的青山隐隐
流不断的绿水悠悠

Dịch Hán Việt:

Trích bất tận, tương tư huyết lệ phao hồng đậu
Khai bất hoàn, xuân liễu xuân hoa mãn hoạch lâu
Thụy bất ổn, sa song phong vũ hoàng hôn hậu
Vong bất liễu, tân sầu dữ cựu sầu
Yến bất há, ngọc lạp kim ba ế mãn hầu
Chiếu bất tận, lăng hoa kính lý hình dung sấu
Triển bất khai để my đầu
Nhai bất minh để canh lậu
Nha!
Kháp tiện tự: già bất trú để thanh sơn ẩn ẩn
Lưu bất đoạn để lục thuỷ du du.

Dịch thơ

Còn chảy mãi lệ tương tư thẫm đỏ
Hoa, liễu buồn thôi nở chốn lầu son,
Không yên giấc, mưa gió ngoài song cửa
sầu với sầu, tìm đến cuối hoàng hôn
Nuốt chẳng trôi, những lời vàng tiếng ngọc
Gương sáng soi khuôn mặt đã hao gầy
Mày chau lại, mong canh thâu chóng hết
Chao ôi!
Non xanh thấp thoáng không ngăn được
Nước biếc mênh mông trôi chẳng dừng.

相思曲:Tương Tư Khúc  – Tác giả: Đới Thúc Luân

Bản gốc:

作者:戴叔伦 – 唐。
高楼重重闭明月,
肠断仙郎隔年别。
紫萧横笛寂无声,
独向瑶窗坐愁绝。
鱼沉雁杳天涯路,
始信人间别离苦。
恨满牙床翡翠衾,
怨折金钗凤凰股。
井深辘轳嗟绠短,
衣带相思日应缓。
将刀斫水水复连,
挥刃割情情不断。
落红乱逐东流水,
一点芳心为君死。
妾身愿作巫山云,
飞入仙郎梦魂里。

Dịch Hán Việt:

Cao lâu trùng trùng bế minh nguyệt,
Trường đoạn tiên lang cách niên biệt.
Tử tiêu hoành địch tịch vô thanh,
Độc hướng dao song toạ sầu tuyệt.
Ngư trầm nhạn diểu thiên nhai lộ,
Thuỷ tín nhân gian biệt ly khổ.
Hận mãn nha sàng phí thuý khâm,
Oán chiết kim thoa phụng hoàng cổ.
Tỉnh thâm lộc lư ta cảnh đoản,
Y đới tương tư nhật ưng hoãn.
Tương đao phá thuỷ thuỷ phục liên,
Huy nhẫn cát tình tình bất đoạn.
Lạc hồng loạn trục đông lưu thuỷ,
Nhất điểm phương tâm vị quân tử.
Thiếp thân nguyện tác Vu Sơn vân,
Phi nhập tiên lang mộng hồn lý.

Dịch thơ

Mảnh trăng thanh lầu cao che khuất
Lòng đau vì xa cách nhiều năm
Tiếng tiêu điệu sáo lặng im
Một mình buồn bã ngóng nhìn phương xa
Bên chân trời chim bay cá lặn
Mòn mõi vì âm tín không về
Chiếu chăn hờn oán não nề
Kim thoa bẻ gãy lời thề còn đâu
Giếng nước sâu mà giây thì ngắn
Xiêm y buồn người chẳng điểm trang
Dùng dao chém nước nước liền
Kéo kia cắt đứt mối tình được không?
Theo dòng nước loạn hồng trôi mãi
Tấm tình em một phiến vì chàng
Xin làm mây núi Vu Sơn
Nhập sâu vào cõi mộng hồn người thương.

Tương Tư Khúc

Những câu thơ hay bằng tiếng Trung về cuộc sống

Những câu thơ hay bằng tiếng Trung về cuộc sống

相思曲 (Xiāngsī qū) / Tương Tư Khúc

Đới Thúc Luân

高楼重重闭明月,
Gāo lóu chóng chóng bì míng yuè,
肠断仙郎隔年别。
Cháng duàn xiān láng gé nián bié.
紫萧横笛寂无声,
Zǐ xiāo héng dí jì wú shēng,
独向瑶窗坐愁绝。
Dú xiàng yáo chuāng zuò chóu jué.
鱼沉雁杳天涯路,
Yú chén yàn yǎo tiān yá lù,
始信人间别离苦。
Shǐ xìn rén jiān bié lí kǔ.
恨满牙床翡翠衾,
Hèn mǎn yá chuáng fěi cuì qīn,
怨折金钗凤凰股。
Yuàn zhé jīn chāi fèng huáng gǔ.
井深辘轳嗟绠短,
Jǐng shēn lù lú jiē gěng duǎn,
衣带相思日应缓。
Yī dài xiāng sī rì yīng huǎn.
将刀斫水水复连,
Jiāng dāo zhuó shuǐ shuǐ fù lián,
挥刃割情情不断。
Huī rèn gē qíng qíng bù duàn.
落红乱逐东流水,
Luò hóng luàn zhú dōng liú shuǐ,
一点芳心为君死。
Yī diǎn fāng xīn wèi jūn sǐ.
妾身愿作巫山云,
Qiè shēn yuàn zuò wū shān yún,
飞入仙郎梦魂里。
Fēi rù xiān láng mèng hún lǐ.

Hán Việt:

Cao lâu trùng trùng bế minh nguyệt,
Trường đoạn tiên lang cách niên biệt.
Tử tiêu hoành địch tịch vô thanh,
Độc hướng dao song toa sầu tuyệt.
Ngư trầm nhạn diểu thiên nhai lộ,
Thủy tín nhân gian biệt ly khổ.
Hận mãn nha sàng phí thúy khâm,
Oán chiết kim thoa phụng hoàng cổ.
Tỉnh thâm lộc lư ta cảnh đoản,
Y đới tương tư nhật ưng hoãn.
Tương đao phá thủy thủy phục liên,
Huy nhẫn cát tình tình bất đoạn.
Lạc hồng loạn trục đông lưu thủy,
Nhất điểm phương tâm vị quân tử.
Thiếp thân nguyện tác Vu Sơn vân,
Phi nhập tiên lang mộng hồn lý.

Dịch nghĩa:

Lầu cao lớp lớp che trăng sáng,
Đau lòng vì suốt năm xa cách chàng.
Tiêu im sáo lặng không nghe tiếng,
Một mình ngồi buồn nhìn ra song cửa ngọc.
Cá lặn chim bay chân trời góc biển,
Biệt ly không được tin thư thật khổ.
Oán đầy giường ngà chăn phí thúy,
Giận bẻ gãy kim thoa phượng hoàng.
Giếng sâu ròng rọc than giây ngắn,
Ngày trôi chậm, xiêm y cũng nặng tương tư.
Dùng dao chém nước nước liền trở lại,
Cầm kéo cắt tình tình không chịu đứt.
Hồng rụng tơi bời theo dòng nước chảy về đông,
Một tấm tình son vì người mà tàn lụi.
Thiếp nguyện làm mây núi Vu (Sơn),
Bay nhập vào giấc mộng trong hồn chàng.

Dịch thơ:

Mảnh trăng thanh lầu cao che khuất
Lòng đau vì xa cách nhiều năm
Tiếng tiêu điệu sáo lặng im
Một mình buồn bã ngóng nhìn phương xa
Bên chân trời chim bay cá lặn
Mòn mỏi vì âm tín không về
Chiếu chăn hờn oán não nề
Kim thoa bẻ gãy lời thề còn đâu
Giếng nước sâu mà giây thì ngắn
Xiêm y buồn người chẳng điểm trang
Dùng dao chém nước nước liền
Kéo kia cắt đứt mối tình được không?
Theo dòng nước loạn hồng trôi mãi
Tấm tình em một phiến vì chàng
Xin làm mây núi Vu Sơn
Nhập sâu vào cõi mộng hồn người thương.

Những câu thơ hay bằng tiếng Trung về cuộc sống

红豆词 (Hóng dòu cí) / Hồng Đậu Từ

Tào Tuyết Cần

滴不尽相思血泪抛红豆
Dī bù jìn xiāng sī xuè lèi pāo hóng dòu
开不完春柳春花满画楼
Kāi bù wán chūn liǔ chūn huā mǎn huà lóu
睡不稳纱窗风雨黄昏后
Shuì bù wěn shā chuāng fēng yǔ huáng hūn hòu
忘不了新愁与旧愁
Wàng bù liǎo xīn chóu yǔ jiù chóu
咽不下玉粒金波噎满喉
Yàn bù xià yù lì jīn bō yē mǎn hóu
瞧不尽镜里花容瘦
Qiáo bù jìn jìng lǐ huā róng shòu
展不开的眉头挨不明的更漏
Zhǎn bù kāi de méi tóu āi bù míng de gèng lòu
呀!
Ya!
恰便似遮不住的青山隐隐
Qià biàn shì zhē bù zhù de qīng shān yǐn yǐn
流不断的绿水悠悠。
Liú bù duàn de lǜ shuǐ yōu yōu.

Hán Việt:

Trích bất tận, tương tư huyết lệ phao hồng đậu
Khai bất hoàn, xuân liễu xuân hoa mãn hoạch lâu
Thụy bất ổn, sa song phong vũ hoàng hôn hậu
Vong bất liễu, tân sầu dữ cựu sầu
Yến bất há, ngọc lạp kim ba ế mãn hầu
Chiếu bất tận, lăng hoa kính lý hình dung sấu
Triển bất khai để mi đầuNhai bất minh để canh lậu
Nha!
Kháp tiện tự: Già bất trú để thanh sơn ẩn ẩn
Lưu bất đoạn để lục thủy du du.

Dịch nghĩa:

Nhỏ không dứt, dòng huyết lệ tương tư rơi xuống như những hạt đậu đỏ
Nở không trọn, liễu xuân, hoa xuân khắp chốn lầu son
Ngủ không yên, mưa gió bên ngoài màn song sau buổi hoàng hôn
Quên chẳng được, sầu mới lẫn sầu cũ
Nuốt chẳng trôi, những gạo ngọc miệng vàng nghẹn đầy cổ họng
Soi chẳng hết, hình dung gầy võ trong gương hoa ấu
Đầu mày giương chẳng mở
Canh khuya cứ lần nữa không sáng
A!
Vừa đúng như: Non xanh thấp thoáng không ngăn lại được
Nước biếc mênh mang trôi đi không ngừng.

Dịch thơ:

Còn chảy mãi lệ tương tư thẫm đỏ
Hoa, liễu buồn thôi nở chốn lầu son,
Không yên giấc, mưa gió ngoài song cửa
Sầu với sầu, tìm đến cuối hoàng hôn
Nuốt chẳng trôi, những lời vàng tiếng ngọc
Gương sáng soi khuôn mặt đã hao gầy
Mày chau lại, mong canh thâu chóng hết
Chao ôi!
Non xanh thấp thoáng không ngăn được
Nước biếc mênh mông trôi chẳng dừ

玉楼春-春恨 (Yùlóu chūn – chūn hèn) / Ngọc Lâu Xuân – Xuân Hận

Án Thù

绿杨芳草长亭路,
Lǜ yáng fāng cǎo chángtíng lù,
年少抛人容易去。
Niánshào pāo rén róngyì qù.
楼头残梦五更钟,
Lóu tóu cán mèng wǔ gēng zhōng,
花底离愁三月雨。
Huā dǐ líchóu sān yuè yǔ.

无情不似多情苦,
Wúqíng bù shì duōqíng kǔ,
一寸还成千万缕。
Yīcùn hái chéng qiān wàn lǚ.
天涯地角有穷时,
Tiānyá de jiǎo yǒu qióng shí,
只有相思无尽处。
Zhǐyǒu xiāngsī wújìn chù.

Hán Việt:

Lục dương phương thảo trường đình lộ,
Niên thiếu phao nhân dung dị khứ.
Lâu đầu tàn mộng ngũ canh chung,
Hoa để ly sầu tam nguyệt vũ.

Vô tình bất tự đa tình khổ,
Nhất thốn hoàn thành thiên vạn lũ.
Thiên nhai địa giác hữu cùng thì,
Chỉ hữu tương tư vô tận xứ.

Dịch nghĩa:

Lục dương phương thảo trường đình lộ,
Niên thiếu phao nhân dung dị khứ.
Lâu đầu tàn mộng ngũ canh chung,
Hoa để ly sầu tam nguyệt vũ.

Vô tình bất tự đa tình khổ,
Nhất thốn hoàn thành thiên vạn lũ.
Thiên nhai địa giác hữu cùng thì,
Chỉ hữu tương tư vô tận xứ.

Dịch thơ:

Liễu xanh cỏ ngát hương ngoài lộ,
Tuổi trẻ ra đi đâu có khó.
Trên lầu trằn trọc suốt năm canh,
Ly biệt tháng ba hoa ướt rũ.

Vô tình nào khổ tựa đa tình,
Một tấc tơ lòng muôn vạn mớ.
Chân trời mặt đất còn chia ngăn,
Chỉ có nhớ nhau không hạn chỗ.

Với những bài thơ Trung Quốc do dean2020.edu.vn sưu tầm trong bài viết, bạn hãy đọc và cảm nhận những nét đẹp và ý nghĩa trong từng lời thơ tác giả gửi gắm. Chúc các bạn thành công!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *